'Đường lưỡi bò' gây phức tạp Biển Đông
Ủy ban Biên giới quốc gia Việt Nam bình luận rằng đường lưỡi bò mà Trung Quốc nêu ra là nguyên nhân gây căng thẳng phức tạp Biển Đông, và việc Trung Quốc đòi các nước phải xin phép để được khai thác dầu khí ở Biển Đông là vô lý.
Ngày 6/1/2012, Phó Vụ trưởng Vụ Biên giới và Biển, Bộ
Ngoại giao Trung Quốc Dị Tiên Lương trả lời trực tuyến mạng Tin tức
Trung Quốc về tranh chấp trên Biển Đông.
Về vấn đề này, Tiến sĩ Lê Quý Quỳnh, Vụ trưởng Vụ Biển
- Uỷ ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trả lời phỏng
vấn báo VnExpress.
Hải quân nhân dân Việt Nam trên đảo Trường Sa Lớn, quần đảo Trường Sa. Ảnh: Thanh Hưng |
- Trong bài phỏng vấn của mình, ông Dị Tiên Lương có
nói: Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, Trung Quốc đã thu
hồi quần đảo “Tây Sa” (cách Trung Quốc gọi Hoàng Sa của Việt Nam) và
“Nam Sa” (cách Trung Quốc gọi Trường Sa của Việt Nam) từ tay quân Nhật.
Vậy thưa ông, sự thật lịch sử là như thế nào?
- Tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951 - một Hội
nghị quốc tế quan trọng giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ
sau chiến tranh thế giới thứ II, đại diện của Chính phủ Việt Nam khi đó
đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa và không có nước nào tham dự Hội nghị phản đối, trong khi Dự thảo
Nghị quyết do Liên Xô đưa ra nhằm trao hai quần đảo này cho Trung Quốc
đã bị 48/51 phiếu chống. Điều đó cho thấy, đòi hỏi về chủ quyền của
Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã bị bác bỏ; còn
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được
thừa nhận tại một hội nghị quốc tế quan trọng sau chiến tranh thế giới
thứ II. Như vậy, ý kiến phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn
toàn trái với thực tế lịch sử lúc bấy giờ.
- Ông Dị Tiên Lương nói rằng: Tháng 12/1947, Bộ Nội
chính Chính phủ Trung Quốc đã ban hành “Bản đồ vị trí các đảo ở Nam
Hải”, vẽ “đường nét đứt” và đặt tên cho một số đảo đá, bãi v.v.... và
chính thức công bố ra bên ngoài năm 1948 v.v... Đường nét đứt là để
khẳng định chủ quyền lãnh thổ và lợi ích biển liên quan của Trung Quốc.
Việc Trung Quốc đưa ra đường yêu sách theo đường đứt khúc 9 đoạn (hay
còn gọi là “đường lưỡi bò”) năm 2009 trên Biển Đông đã gây ra rất nhiều
phản ứng của các nước trong và ngoài khu vực và đã bị phê phán rất nhiều
trong các cuộc hội thảo quốc tế. Xin ông cho biết ý kiến về việc này?
- Cho tới trước năm 2009, Trung Quốc chưa bao giờ
chính thức đưa ra yêu sách này. “Đường lưỡi bò” hoàn toàn không có cơ sở
pháp lý và lịch sử, vì được vẽ ra một cách tùy tiện, không có toạ độ
của các điểm cụ thể và không được quốc tế công nhận. Năm 2009, Trung
Quốc lần đầu chính thức đưa yêu sách “đường lưỡi bò” ra Liên Hợp Quốc
nhưng không có giải thích cụ thể. Ngay sau đó, Việt Nam, và tiếp đến là
Indonesia, Philippines đã gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc để phản đối yêu
sách phi lý đó của Trung Quốc. Tại các cuộc hội thảo quốc tế gần đây,
rất nhiều học giả quốc tế như Pháp, Bỉ, Mỹ, Indonesia đã chỉ ra tính phi
lý của yêu sách “đường lưỡi bò”, đồng thời, nhiều học giả còn nhấn mạnh
rằng, chính yêu sách “đường lưỡi bò” là nguyên nhân gây ra những căng
thẳng, phức tạp trên Biển Đông. Cụ thể là:
- Yêu sách “đường lưỡi bò” hoàn toàn đi ngược lại
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 mà Trung Quốc là một
bên tham gia; vùng biển mà “đường lưỡi bò” bao trùm không thể là lãnh
hải hay vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của Trung Quốc.
- Cho tới nay, các văn bản pháp luật về biển của Trung Quốc đều không đề cập tới yêu sách “đường lưỡi bò”;
- Thực tiễn các quốc gia ven Biển Đông cũng như các
quốc gia ngoài khu vực đều phủ nhận yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung
Quốc;
- “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc đã xâm phạm vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của năm nước là Việt Nam, Philippines,
Indonesia, Malaysia và Brunei.
- Ông Dị Tiên Lương khẳng định Trung Quốc có đầy đủ
chứng cứ lịch sử và pháp lý đối với chủ quyền ở “Nam Sa” (Trường Sa).
Ông có ý kiến gì về vấn đề này?
- Đối với vấn đề chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và chứng cứ
lịch sử chứng minh rằng Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này
ít nhất từ thế kỷ 17 khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia
nào. Từ thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ 19, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã
triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo như
cử các đội Hoàng Sa ra quần đảo đo đạc, thể hiện trên bản đồ, dựng bia,
lập miếu, quản lý và tổ chức đánh bắt hải sản tại quần đảo Hoàng Sa. Các
văn bản pháp lý của Nhà nước phong kiến Việt Nam như Châu bản, Sắc chỉ
hiện đang được lưu giữ tại các trung tâm lưu trữ của Việt Nam đã khẳng
định rõ chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong thời kỳ Pháp thuộc (cuối thế kỷ 19 nửa đầu thế
kỷ 20), Pháp đã nhân danh Việt Nam tiếp tục thực thi quyền quản lý đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; từ những năm 30 của Thế kỷ 20
Pháp quy thuộc hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào các tỉnh đất liền
của Việt Nam và cho quân đồn trú ở hai quần đảo này; sau đó theo Hiệp
định Geneva, Pháp đã chuyển giao hai quần đảo cho chính quyền Sài Gòn -
Chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Sau năm 1975, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quản lý các đảo ở Trường Sa.
Như vậy, việc thực thi chủ quyền lãnh thổ của các Nhà
nước Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đã được tiến hành một
cách thực sự, hoà bình và liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy
nhiên, năm 1956 Trung Quốc đã đưa quân đội chiếm các đảo phía Đông quần
đảo Hoàng Sa, năm 1974 Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần
đảo Hoàng Sa; và năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số bãi đá
ngầm ở quần đảo Trường Sa. Hành động này của Trung Quốc đã vi phạm
nghiêm trọng luật pháp quốc tế, đi ngược lại tinh thần Hiến Chương của
Liên Hợp Quốc và đã bị nhiều quốc gia trên thế giới lên tiếng lên án.
- Ông Dị Tiên Lương nói rằng năm 1958, Thủ tướng
Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã gửi Công thư đến Thủ tướng Chu Ân
Lai, công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa)
và “Nam Sa” (Trường Sa). Ông có thể cho biết ý kiến của mình về việc
này?
- Nội dung của Công thư ngày 14/9/1958 là hết sức rõ
ràng: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ ghi nhận, tán thành và tôn
trọng Quyết định của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về hải
phận 12 hải lý của đất nước Trung Quốc. Công thư không liên quan gì đến
vấn đề chủ quyền lãnh thổ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó nằm
phía Nam Vĩ tuyến 17 và theo Hiệp định Geneva thuộc thẩm quyền quản lý
của chính quyền miền Nam Việt Nam - Chính phủ Việt Nam Cộng hoà.
Việc cho rằng bản Công thư ngày 14/9/1958 là bằng
chứng Chính phủ Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là xuyên tạc lịch sử. Việt Nam từ trước
tới nay chưa hề có bất cứ một tuyên bố nào từ bỏ chủ quyền thiêng liêng
của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 9 năm 1975, khi tiếp đoàn đại biểu Đảng Cộng sản
Việt Nam sang thăm Trung Quốc, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình
đã nói: “Giữa hai nước có tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, sau này sẽ bàn bạc giải quyết”. Trong Bị vong lục ngày
12/5/1988 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã nhắc lại nội dung này.
Điều này cho thấy, theo quan điểm của phía Trung Quốc, giữa hai nước
Việt Nam - Trung Quốc có tồn tại tranh chấp đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Tại các cuộc đàm phán về vấn đề trên biển giữa hai
nước, kể cả tại các vòng đàm phán về Thoả thuận những nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển vừa qua, hai bên đều nêu rõ quan
điểm của mình về vấn đề chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Tôi xin khẳng định lại một lần nữa rằng lập trường của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là rõ ràng và nhất
quán. Việt Nam là nhà nước đầu tiên và duy nhất đã thực hiện quyền làm
chủ của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách hoà
bình, ổn định và liên tục. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ
sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Mặt khác, Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp
ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng Luật pháp
và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
biển năm 1982 và trên tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên
trên Biển Đông năm 2002.
- Ông có bình luận gì về việc ông Dị Tiên Lương nói
rằng các hoạt động dầu khí của các nước ở “Nam Hải” (Biển Đông) mà không
có sự đồng ý của Trung Quốc là hoạt động phi pháp?
- Là quốc gia đã ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên
Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, Việt Nam đã và đang thực thi đầy đủ chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các hải đảo,
vùng biển và thềm lục địa của mình theo các quy định của Công ước. Cụ
thể, Việt Nam đã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đảm bảo thi hành
pháp luật trên các vùng biển và hải đảo; tiến hành thăm dò, khai thác
tài nguyên và bảo vệ môi trường biển trong đó có các hoạt động thăm dò
và khai thác dầu khí. Các hoạt động dầu khí đều được tiến hành trong
vùng đặc quyền và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, không có tranh
chấp với bất kỳ quốc gia nào.
Chính Trung Quốc cũng là quốc gia đã phê chuẩn Công
ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 nên cần phải có nghĩa vụ
thực hiện các quy định của Công ước này.
Phát biểu nói trên của ông Dị Tiên Lương là hoàn toàn
vô lý, xúc phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia
của các quốc gia ven biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển
1982.
(Thằng China vô cùng ác độc)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét