TT - Gần 20 chiếc tàu đánh bắt xa bờ đang được đóng
cùng lúc. Chúng nằm thành hàng thẳng tắp bên bờ sông. Nhiều chiếc đã
chuẩn bị hạ thủy. Có chiếc đang được dựng lên khung sườn nhìn xa như
cánh chim hải âu chuẩn bị lao ra biển.
Con tàu này rồi sẽ ra khơi, từ Cổ Lũy - Ảnh: Q.V. |
Dẫn tôi đi thăm xưởng đóng tàu Cổ Lũy danh tiếng của
quê hương hải đội Hoàng Sa, truyền nhân làng nghề đóng tàu lịch sử này
không giấu vẻ tự hào: “Những chiếc tàu tổ tiên chúng tôi đóng xa xưa đã
chinh phục sóng gió Hoàng Sa, Trường Sa. Và những chiếc tàu chúng tôi
đóng hôm nay tiếp tục thẳng tiến ra đó”.
Danh tiếng làng nghề
Cổ Lũy là một làng cổ ở xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa,
Quảng Ngãi. Ra miền Trung, tôi tìm ngôi làng này không khó bởi hình như
bất cứ ngư dân nào cũng biết. Từ lâu, Cổ Lũy đã nổi danh là làng đóng
tàu cá lớn nhất Quảng Ngãi và thuộc hàng đầu cả nước. Các bậc cao niên
kể rằng biến động thời cuộc, chiến tranh, ly loạn đã làm làng nghề thăng
trầm, phải tạm dịch chuyển quanh vùng, nhưng sự truyền nối nghề nghiệp
của tổ tiên trên Cổ Lũy chưa bao giờ đứt mạch. Và hầu như tất cả những
người thợ ở đây đều là hậu duệ của các gia tộc ít nhất đã năm, mười đời
nối nghiệp nghề đóng tàu.
Buổi chiều, tôi ghé nhà người thợ đóng tàu già Nguyễn
Tấn Viện cũng là lúc ông vừa góp ý con cháu chuẩn bị đóng mới chiếc tàu
đánh cá xa bờ cho ngư dân từ Vũng Tàu ra. Đó là chiếc tàu lớn sẽ hoạt
động trên ngư trường Trường Sa, Hoàng Sa với chiều dài 22m, ngang 6m,
cao 3,4m và có công suất máy 650 CV, chịu được sóng gió cấp 6, cấp 7...
Tết này ông Viện 87 tuổi, là anh cả trong gia đình có ba anh em trai đều
theo nghề đóng tàu mà người em út Nguyễn Tấn Trà nay cũng đã sang tuổi
77. Cẩn thận cho tôi xem những chiếc cưa, chiếc đục đóng tàu được gìn
giữ như “gia bảo”, ông Viện kể mình học nghề cha chú, còn cha chú thì
được ông nội, ông cố truyền lại. Nếu tính đến đời con cháu vẫn đang theo
việc tổ tiên thì nhà ông chính xác đã bảy đời truyền nối giữ nghiệp.
Còn nếu theo ký ức được người xưa truyền kể thì gia tộc này đã trên 10
đời sống chết cùng nghề đóng tàu.
Ông nội Nguyễn Tấn Dương của ông Viện mới gần 30 tuổi
đã trở thành thợ cả tài hoa nhất, nhì Quảng Ngãi. Đến nỗi khi ông Dương
mất sớm, bạn nghề ở lại tiếc khóc: “Tại Dương tài hoa quá nên ông trời
khiến bạc mệnh”. Còn ông Nguyễn Tấn Xuân, cha ông Viện, từng tham gia
các thương thuyền ngược xuôi Bắc - Nam. “Ông già tôi chở gạo, mắm ra Hải
Phòng, Hà Nội bán, rồi đem tơ sợi, vải vóc vào xứ Sài Gòn. Mỗi chuyến
ông đi dài hai, ba tháng tùy theo cơn gió thổi buồm và hàng hóa bán được
nhanh hay chậm” - ông Viện hồi tưởng chuyện xưa.
“Tuy nhiên, làng này không chỉ nhà tôi mà nhiều gia tộc
khác cũng gắn bó với cái cưa, cái đục, đóng tàu đi biển. Đời chúng tôi
chính là những người đã chuyển giao từ đóng ghe buồm sang tàu máy đầu
tiên ở biển miền Trung. Và con cháu chúng tôi là thế hệ đang tiếp bước
đóng những chiếc tàu đánh bắt xa bờ lớn hiện nay”. Hồi tưởng quá khứ,
ông Viện kể mình 18 tuổi đã thành thợ cả trong thập niên 1940 đầy biến
động. Ông được cha chú dẫn vào nghề, tập tành đóng chính những chiếc ghe
buồm truyền thống mà các hải đội Hoàng Sa đã từng sử dụng. Tuy nhiên,
loại ghe thời kỳ này đã được đóng tăng cỡ để trở thành ghe bầu đi buôn
đường dài.
Là một trong những người cuối cùng đã đóng nên chiếc
ghe buồm lớn nhất Quảng Ngãi giữa thế kỷ 20, ông Viện tự hào kể từ xưa
làng nghề xứ Quảng này đã nổi danh với những chiếc tàu bền chắc, vượt
bão táp đại dương. Khoảng giữa thập niên 1960, ông Viện và bạn bè chính
là lớp thợ đầu tiên chuyển từ đóng ghe buồm sang đóng tàu máy. Việc đóng
vỏ tàu không khó, họ chỉ bỡ ngỡ ở phần ráp máy. Nhưng sau vài chục ngày
học lại thợ từ Đà Nẵng, Tam Kỳ vào, ông Viện và 25 đồng nghiệp Cổ Lũy
đã tự tách đóng riêng được chiếc tàu máy hoàn chỉnh. Đó là con tàu dài
17m, ngang 4m và cao hơn 2,5m, gắn máy 40 CV. Từ đây, làng đóng tàu Cổ
Lũy rẽ sang bước ngoặt mới hiện đại hơn...
Trên đầu sóng ngọn gió
Làng đóng tàu Cổ Lũy sau nhiều lần phải dịch chuyển vì
chiến tranh đã về thôn Cổ Lũy vào khoảng thập niên 1970. Đến năm 1977,
làng chuyển sang mô hình hợp tác xã, trở thành một trong những làng nghề
đầu tiên cả nước bước vào giai đoạn đóng tàu lớn đánh bắt xa bờ với tâm
huyết rất nhiều của các bậc thợ cả cao niên như ông Viện, ông Trà, ông
Lâm... Đến nay thì chính những người thợ ở đây cũng không thể nhớ từng
đóng được bao nhiêu chiếc tàu vì tổng số đã lên đến hàng ngàn chiếc các
loại. Hiện Cổ Lũy có 47 xã viên chính và 20 đội. Mỗi đội có một thợ cả,
nhiều thợ chính và hơn 200 lao động để có thể đóng cùng lúc nhiều chiếc
tàu. Trung bình mỗi năm hợp tác xã này đóng được 45-50 tàu xa bờ. Và
những tên tuổi thợ cả hiện nay như Vương, Sinh, Bên, Cường, Huy, Sớt,
Mạo, Bảo, Thành, Thanh, Nuôi... đã tự hào nối tiếp cha ông trở thành uy
tín của làng nghề.
Hôm tôi ghé thăm đội trưởng thi công Nguyễn Tấn Huy
cũng là lúc anh đang chỉ huy cùng đóng bốn chiếc tàu đánh bắt xa bờ và
chuẩn bị hạ thủy hai chiếc cho ngư dân Bình Định, Quảng Ngãi. Chúng đều
được trang bị máy có công suất lớn nhất của ngư dân miền Trung hiện nay
với 450-650 CV, thậm chí có chiếc đã đến gần 1.000 CV. Là thế hệ con của
anh em ông Nguyễn Tấn Viện, năm nay ông Huy 45 tuổi, đã từng đứng riêng
chỉ huy đóng gần 40 chiếc tàu cho ngư dân các tỉnh miền Bắc, miền
Trung, miền Nam đến đặt đóng. Tạm lơi tay việc, người thợ cả có vóc dáng
chắc khỏe, kiên cường của ngư dân nhìn xa xăm ra biển và tâm sự: “Tôi
cũng từng đi biển, từng treo mình trên đầu sóng ngọn gió Hoàng Sa,
Trường Sa, nên khi vào nghề đóng tàu tôi rất thấm thía công việc mình
làm. Những con tàu đó chở theo sinh mạng, ý chí đồng bào mình”.
Lặng nhìn người đàn ông biển cả đậm nét dạn dày sóng
gió, tôi nghe lời tâm sự chân chất lòng ái quốc của anh bằng chính sự cố
gắng đóng những con tàu thật tốt để xông pha sóng gió đại dương. Ông
Huy kể mình theo học nghề cha bốn năm thì được lên làm thợ cả. Đường học
khá nhanh vì hình như nghề này đã thấm vào dòng máu gia tộc. Lần đầu
ông được tự tay dựng cây gỗ xỏ mũi tàu, việc quan trọng và ý nghĩa nhất
trong đóng tàu, cha ông đã dặn dò: “Từ hôm nay, con đã chính thức nối
nghiệp tổ tiên, đóng những con tàu xông pha bão táp. Dù bất cứ hoàn cảnh
nào, con cũng phải giữ lấy tâm nghề, giữ lấy truyền thống của gia tộc,
của làng Cổ Lũy và dân tộc để luôn kiên cường trước sóng gió đại dương”.
Phía trước người thợ cả, những con tàu Cổ Lũy vừa hạ thủy đang tiến thẳng ra biển cả của Tổ quốc...
Theo QUỐC VIỆT (TTO)
-----------------------------------------------
Tin bài liên quan:
>> Kỳ 1: Khát vọng tàu hơi nước
>> Kỳ 2: Hải thuyền Hoàng Sa
>> Kỳ 3: Câu chuyện của người thợ cả
>> Kỳ 4: Trong mắt một thuyền trưởng Mỹ
>> Kỳ 5: Thủy quân triều Nguyễn
>> Kỳ 6: Người Việt xuất ngoại
>> Kỳ 7: Những người đi biển quả cảm
>> Kỳ 2: Hải thuyền Hoàng Sa
>> Kỳ 3: Câu chuyện của người thợ cả
>> Kỳ 4: Trong mắt một thuyền trưởng Mỹ
>> Kỳ 5: Thủy quân triều Nguyễn
>> Kỳ 6: Người Việt xuất ngoại
>> Kỳ 7: Những người đi biển quả cảm
-----------------------------------------------
Đón đọc số tới: Số phận những kho báu Chăm ở Lâm Đồng
Có một ngày cách đây lâu lắm, ở vùng Phan Rang, Phan Rí
có chiến tranh. Cả vùng rừng núi Tà In, Tà Năng cũng xôn xao thức dậy
khi vua Chăm dẫn theo vô số quân lính và người nhà chạy qua lánh nạn.
Sau khi làm nhà để đồ đạc và những hộp Klon, họ gửi lại tất cả cho đồng
bào Churu rồi tiếp tục ra đi, về đâu không rõ.
Đó là những gì dân làng Sóp ở Lâm Đồng còn nhớ được về
lịch sử những ngôi đền chứa báu vật Chăm nơi đây. Nó ở đâu? Có gì trong
những ngôi đền này?
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét