Người Việt chinh phục đại dương - Kỳ 3: Câu chuyện của người thợ cả
TT - Khi đi tìm lại kỹ thuật đóng những chiếc thuyền
buồm một thuở lừng danh của hải đội Hoàng Sa, tôi may mắn gặp được nhiều
bậc cao niên vẫn nắm vững kỹ thuật đóng loại thuyền này. Thậm chí có
những bác thợ cả còn tự hào kể đời mình đã từng đóng được ít nhất vài
chục chiếc mãi đến những năm 1950 của thế kỷ 20...
Hải thuyền Hoàng Sa được phục dựng - Ảnh: Q.V. |
Mê tre, sự sáng tạo Việt độc đáo
Lý Sơn, mùa biển này hay nổi dông gió, nhưng các ngư
dân quả cảm vẫn đang ra khơi. Họ là thế hệ trẻ trên hòn đảo quê hương
hải đội Hoàng Sa đã chuyển sang sử dụng tàu máy, còn trước đó cha ông họ
vẫn cưỡi trên đầu sóng ngọn gió bằng loại ghe câu chạy buồm mà tổ tiên
họ từ hàng trăm năm trước đã sử dụng. Ông Võ Hiển Đạt kể khi được tỉnh
Quảng Ngãi giao phục dựng chiếc ghe câu một thời, ông hào hứng nhận ngay
mà không chút băn khoăn. Những người ở tuổi 80 như ông trên đảo đều
biết rõ, thậm chí nhiều người từng tự tay đóng hoặc đi biển trên những
chiếc ghe đó. “Không sử dụng nhiều gỗ như bây giờ vì phần thân dưới ghe
là mê tre, nhưng người thợ đóng loại ghe đó phải biết dựng nên khung
sườn gỗ chắc chắn để kết hợp với độ dẻo dai của tre mà chống chịu bão
gió trên biển ...” - ông Đạt kể phải mất khoảng 150 ngày công mới hoàn
thành chiếc ghe lịch sử này dù chỉ là mô hình thu nhỏ. Tất cả chi tiết
đều làm bằng tay, chi tiết càng nhỏ càng đòi hỏi khéo tay hơn.
Nhờ chỉ dẫn của các ngư dân lớn tuổi, tôi đi tìm người
thợ cả Nguyễn Tấn Trà, 76 tuổi, ở xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, Quảng
Ngãi đã từng đóng cả trăm chiếc ghe. 60 năm tuổi nghề, ông là hậu duệ
của dòng họ có ít nhất sáu đời đã đóng ghe câu. Tiếp nối nghề này mãi
đến năm 1968 ông mới chuyển qua đóng tàu máy. Những ngày ở bến sông
Nghĩa Phú, tôi đã mải mê nghe ông Trà ôn lại ký ức gắn liền với loại ghe
câu từng ngang dọc Hoàng Sa: “Đời nay có thể nói chiếc ghe câu xưa lạc
hậu. Nhưng với những thợ cả đời đóng tàu như chúng tôi thì chiếc ghe đó
là cả công trình nghệ thuật, một sự hun đúc kinh nghiệm đi biển bao đời
mới có được. Nó như chính con người Việt nhỏ nhắn nhưng không dễ khuất
phục, mềm mại nhưng dẻo dai, bền bỉ...”.
Ông Trà tâm sự chỉ riêng tấm mê tre chịu nước dưới ghe
cũng thể hiện kinh nghiệm độc đáo của người Việt. Thợ làm mê phải có
kinh nghiệm lựa tre già, lóng tốt, không thối gốc, cụt ngọn, sau đó mới
chọn đoạn dài đẹp nhất giữa thân. Việc chẻ tre thành từng thanh nan cũng
đòi hỏi rất khéo tay. Nan tre phải đạt độ dày và lớn đều nhau để mắt
đan liên kết chặt chẽ. Nan tre đan mê ghe không cần ngâm nước trước,
nhưng phải phơi đủ vài nắng tươi. Thợ đan phải có kinh nghiệm mới được
đan mê ghe để đều tay, xít chặt. Mắt mê cũng không không đan song song
hay thẳng đứng với mặt nước mà theo chiều xéo góc để có độ dẻo dai,
chống chịu được sóng gió. Mê tre sau khi đan xong được quét phân trâu bò
để trét kẽ nan, rồi lại tiếp tục phủ lớp dầu rái (cây rái trên rừng).
Theo ông Trà, tấm mê tre có vẻ mỏng manh so với gỗ nhưng dẻo dai, khó
gãy. Khi gặp sóng gió có thể lún vào rồi lại căng ra bình thường. Mê tre
cũng rẻ tiền, dễ thay sau mỗi hải trình xa xôi, nếu được quét dầu rái
cẩn thận có thể bền hơn ba năm.
Ưu điểm lớn nhất của mê tre chính là sự nhẹ nhàng giúp
giảm tải ghe. Thường mê tre chỉ nặng bằng 1/5 so với gỗ. Nhờ đó mà chiếc
ghe câu hay ghe bầu vận tải của người Việt xưa đã đạt tốc độ rất cao.
Người thợ cả Nguyễn Tấn Trà - Ảnh: Q.V. |
Vững chãi trong bão tố
Tự hào về những ghe câu mình từng đóng, ông Trà kể
ngoài nghệ thuật dùng mê tre làm bụng ghe, phần khung sườn và các bộ
phận khác cũng được hun đúc từ kinh nghiệm bao đời người Việt đi biển.
Gỗ quý xưa không thiếu, nhưng việc chọn đúng loại gỗ phù hợp để đóng ghe
đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc kỹ thuật hàng hải. Chiếc ghe tốt phải cứng
cáp chịu đựng được bão tố, nhưng cũng không được quá nặng nề, chậm
chạp. Là một trong những người thợ từng đóng những chiếc ghe câu cuối
cùng ở Quảng Ngãi, ông Trà kể: “Tổ tiên đã truyền cho tôi kinh nghiệm
chọn loại gỗ cứng nhưng dẻo dai như sao, chò, kiền kiền để đóng phần ghe
dưới nước, đặc biệt là xỏ lái trước mũi và “con lươn” chịu lực chính
dọc theo đáy ghe”. Chỉ cách đây già nửa thế kỷ, gần như toàn bộ công
việc đóng tàu vẫn được làm bằng tay. Tùy cỡ ghe họ có thể đóng mất
200-300 ngày công, đòi hỏi sự khéo tay và kinh nghiệm của thợ.
Thời ông Trà, thợ cả giàu kinh nghiệm chỉ nhìn lượng gỗ
có thể tính chính xác mực nước ghe mình đóng. Ghe câu thường gồm khoang
đốc phía sau, khoang lòng và khoang mũi. Loại ghe câu nhỏ của đội Hoàng
Sa mà về sau vẫn được con cháu họ là ngư dân Lý Sơn sử dụng thì dùng
hai hoặc ba cột buồm. Trong đó cột chính (dân đi biển quen gọi là cột
lòng) bằng các loại gỗ kiền, lim cao khoảng 9m, cột buồm mũi cao khoảng
7m và cột buồm lái phía sau. Ghe câu thường chỉ dài 11-16m, rộng 2,5-3m
và sâu 1,8-2,5m. Thủy thủ đoàn 8-10 người, phù hợp với các tài liệu cổ
ghi chép suất đội đi Hoàng Sa được tìm thấy ở Lý Sơn. Từ đảo này họ đi
ba ngày ba đêm thì đến Hoàng Sa. Tốc độ chính nhờ sức gió thổi buồm,
nhưng ghe vẫn thường được trang bị thêm bốn chèo ngang và một chèo lái.
Để sinh tồn sáu tháng lênh đênh trên biển Hoàng Sa, ghe
được trang bị các khạp gỗ đựng gạo, nước, củi để tránh bị vỡ khi gặp
sóng gió. Thủy thủ đoàn cũng không thể thiếu khạp dầu rái dự phòng cho
trường hợp phải trét sửa ghe dọc đường. Đặc biệt, họ mang theo cả giáo
mác cán gỗ để phòng thân. Ngoài gạo, thức ăn thêm của đội Hoàng Sa là cá
mú bắt được trên biển và các loại trứng chim, rùa có rất nhiều trên các
đảo.
Không rõ hải quân triều đình xưa có dùng nhiều thuyền hải vận lớn để theo đội Hoàng Sa là dân binh
Lý Sơn hay không. Nhưng chắc chắn chiếc ghe câu nhỏ là
phương tiện chủ yếu của hải đội Hoàng Sa đã được ghi chép trong sử sách
và ký ức con cháu nhiều đời truyền lưu.
QUỐC VIỆT
________________________
Cách đây hàng thế kỷ, nhiều thuyền trưởng của các
cường quốc hàng hải từng đến biển Việt Nam. Họ chính là chứng nhân quan
trọng cho thấy người Việt đã từng ngang dọc, thực thi chủ quyền biển của
mình...
Kỳ tới: Trong mắt một thuyền trưởng Mỹ
(Theo TTO)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét